10 Hình ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đẹp nhất

thumnail-the-gioi-toa-nang-312313

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là một biểu tượng của trí tuệ và sáng suốt trong đạo Phật. Hình tượng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thường được miêu tả như một vị Bồ Tát trẻ trung, ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen. Đặc điểm đặc biệt của Ngài là tay phải nâng lên cao, cầm một khẩu kiếm đang bốc lửa.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát còn được gọi là Mạn Thù Thất lỵ, có nghĩa là Diệu Đức, Diệu Cát Tương. Diệu Đức được hiểu là mọi đức đều tròn đầy. Theo truyền thuyết, Ngài là con thứ ba của vua Vô Trách Nhiệm, tên là Thái tử Vương Chúng. Ngài cũng là người đồng phạm của Phật Bảo Tăng và đã phát nguyện độ sinh, nên được hiệu là Văn Thù Sư Lợi. Sau khi Phật Bảo Tăng thọ ký cho Ngài phải trải qua vô số kiếp nạn khổ, thì Ngài sẽ trở thành Phật ở thế giới thánh tịnh Vô Cấu Bảo Chi thuộc về phương Nam, hiệu là Phật Văn Thù. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi xuất hiện hầu như trong tất cả các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật… và được coi là một nhân vật thân cận nhất của Đức Phật Thích Ca.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thậm chí có thời điểm được đại diện Đức Thế Tôn diễn nói Chánh pháp, cũng như đón vai người điều khiển chương trình để giới thiệu đến thính chúng một thời pháp quan trọng của Đức Bổn Sư. Ngài thấu hiểu tâm pháp của Phật bao gồm cả bát đức: Pháp thân, Bát Nhã và Giải thoát, cho nên trong hàng Bồ tát, Ngài là thường thủ. Là vị Bồ tát tiêu biểu cho trí tuệ, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung, ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen. Biểu tượng đặc biệt của Ngài là tay phải, đường cao lên trên đầu, cầm một khẩu kiếm đang bốc lửa. Nó mang ý nghĩa rằng chính kiếm trí tuệ này sẽ đứt đoạn tất cả những xiềng xích trói buộc của vô minh phiền não đã cột chặt con người vào những khổ đau và bất hạnh của vòng sinh tử luân hồi bất tận và đưa con người đến trí tuệ viên mãn.

Trong khi đó, tay trái của Ngài đang cầm giữ cuốn kinh Bát Nhã trong tư thế như ôm ấp vào giữa trái tim. Đây là biểu trưng cho tỉnh thức, giác ngộ. Đôi khi, chúng ta cũng thấy tay trái của Ngài cầm hoa sen xanh, biểu thị cho đoạn đức. Có nghĩa là sử dụng trí tuệ để loại bỏ mọi nhiễm ô thâm ái, như hoa sen ở trong bùn mà không nhiễm mùi bùn. Nói một cách khác, Bồ tát không phải là người ẩn nơi non cao rừng thẩm, hoặc sống trong cảnh thanh tịnh ưu nhàn, mà là người sống chung đụng với quần chúng, lăn lộn trong đám bụi trần để cứu độ chúng sinh, nên có lúc họ ra làm vua, có lúc làm quan, cũng có khi làm kẻ tật nguyền nghèo khổ… Tuy sống trong đục lạc đầy đủ, nhưng Bồ tát vẫn giữ tâm thanh tịnh không bị ô nhiễm như người đời. Đó là nhờ trí tuệ xua sạch thâm ái, viên thành đoạn đức.

Chiếc giáp Ngài mang trên người được gọi là giáp nhẫn nhục. Nhờ nó mà các mũi tên thị phi không xâm phạm vào thân. Nó có thể che chở cho Ngài trọn toàn tâm từ bi, do đó bọn giặc sân hận oán thù không thể nào lay chuyển được hành nguyện của Bồ tát. Bồ tát không bao giờ rời chiếc giáp nhẫn nhục vì nếu thiếu nó thì họ không thể thực hiện được tâm Bồ đề. Nói về Phật giáo Á Châu, thì Năm Đài Sơn bên Trung Quốc được xem như là nơi trụ tích của Văn Thù Sư Lợi Bồ tát. Năm Đài Sơn thuộc tỉnh Sơn Tây và có năm ngọn núi liền với nhau là Đông Đài, Tây Đài, Nam Đài, Bắc Đài và Trung Ương Đài. Phong cảnh rất thanh tú với hồ nước lung linh, những dòng sông trong veo uốn khúc cộng thêm những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú như những bức tranh thủy mặc, nên từ lâu được coi là chốn bồng lai tiên cảnh, trú xứ của những vị Tiên theo truyền thuyết Trung Hoa. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:

“Nọi địa các Tỳ Đài Sơn,
Tiền nhân viếng thấy hình tướng kì lạ”

Văn Thù Sư Lợi Bồ tát trụ lại ở núi Thánh Lương phía Đông Bắc và hiện đang thuyết pháp cho chư Bồ tát nghe. Mà núi Thánh Lương sau này được ám chỉ là núi Năm Đài. Vì vậy vào đời nhà Đường (736 sau T.C) có vị Thiền sư Đạo Nhất, một vị cao tăng, đã thực hiện một chuyến hành hương trên Năm Đài sơn. Sư gặp một lão tăng cưỡi trên mình một con voi trắng ở phía đối diện. Lão tăng nói ngày mai sẽ gặp được Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, nói xong thì lão tăng biến mất. Sư bất ngờ và suốt đêm nghĩ lại chùa Thánh Lương, trung tâm của núi Năm Đài. Sáng hôm sau vào lúc mơ màng, Sư đã thức dậy, một mình nhắm hướng Tây lên núi. Sư lại gặp vị cưỡi con voi trắng hôm qua và vị tăng khuyến khích sư tiếp tục đi lên núi.

Khi sư đi về hướng Tây Bắc, đi qua một cây cầu thì Sư thấy một dinh thự hùng vĩ trắng ngần như một tu viện, tất cả đều bằng vàng. Sau đó Sư gặp lại vị lão tăng và không còn nghi ngờ gì nữa, Sư biết chắc vị lão tăng kia chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ tát hiện hồn. Sư mừng đến độ choáng váng một lúc sau Sư mới hoàn hồn tỉnh lại. Nhân cơ hội này Sư đã thăm vấn về những khúc mắc trong Phật pháp và Bồ tát cũng ân cần hỏi hàn về tình trạng Phật pháp ở quê hương Sư. Từ giã Bồ tát bước đi chỉ còn trăm bước, Sư ngưới đầu nhìn lại, tất cả đều biến mất. Sư Đạo Nhất đem tất cả những điều chứng kiến được tâu trình lên vua Đường Huyền Tôn. Nhà vua rất thu hút bởi chuyện này nên sai thiết lập nghĩa Kim Cát Tự. Đây là ngôi chùa vĩ đại được kiến trúc theo mô hình mà Sư nhớ lại được hoàn tất vào cuối thế kỷ thứ 8.

Một nhà sư khác người Nhật tên là Viên Nhân (Ennin) cũng đã hành hương đến Năm Đài Sơn vào năm 840 sau TC. Ông đã lưu lại đây hơn hai tháng và đã ghi lại những điều chứng kiến được như sau: “Vào khoảng đầu hôm, chúng tôi, một nhóm tăng khoảng mười người đột nhiên trong thấy trên bầu trời hướng Đông cảnh xuất hiện một cây đèn thần. Ánh sáng ban đầu chỉ nhỏ cỡ chừng bằng một cái bình nhưng sau đó lớn dần lên bằng cả một căn nhà. Chúng tôi thật sự rung động trước cảnh tượng này, vội vã quỳ xuống đánh lễ và niệm lớn danh hiệu Bồ tát Văn Thù. Rồi thì một cây đèn khác lại hiện ra gần chúng tôi hơn. Hai ngọn đèn này nhìn từ xa, cách nhau khoảng chừng 100 bước, tỏa ánh sáng rất rực rỡ cho đến khoảng nửa đêm thì tàn lui dần và biến mất”. Trong cuốn hồi ký này, sư Viên Nhân cũng mô tả lại kiến trúc, đền đài, những nơi thờ phượng trên Năm Đài Sơn, kể cả bức tượng Bồ tát Văn Thù rất nổi tiếng tại chùa Hoa Nghiêm. Đây là bức tượng Bồ tát cưỡi trên mình con sư tử lớn bằng cả một ngôi nhà năm gian. Con sư tử trong thật siêu nhiên, vĩ đại và sống động giống như là thật vậy. Khi nhìn, chúng ta có cảm tưởng như là nó đang đi và thở hơi khói ra ở miệng. Sư Viên Nhân viết thêm rằng: “Bức tượng này phải đúc đến lần thứ bảy mới hoàn thành bởi vì tất cả những lần trước, lần nào cũng bị bể cả”.

Cuối cùng, chỉ có Văn Thù Sư Lợi thấy mặt Đức Phật đến thăm bệnh của Trưởng giả Duy Mã Cật mà thôi. Cùng đi với Bồ tát Văn Thù còn có 8000 Bồ tát, 500 Thánh văn và trăm nghìn Thiên nhân để xem một cuộc tranh luận về giáo pháp của hai nhân vật kiệt xuất này.

Duy Mã Cật hỏi: Thế nào là hạt giống Như Lai? Văn Thù Sư Lợi trả lời:

  • Có thân là hạt giống Như Lai, vô minh, ái dục là giống, tham sân si là giống, tứ điên đảo là giống, lục nhập là giống, thất thức xứ là giống, bát tà pháp là giống, cửu não là giống, thập bát thiện đạo là giống. Nói tóm lại, sáu mươi hai kiến chấp và tất cả phiền não đều là hạt giống Phật.

Duy Mã Cật hỏi: Tại sao?

Văn Thù đáp:

  • Nếu kẻ thấy vô vi vào chánh vị thì không thể phát tâm Vô thượng Bồ đề nữa. Ví như chỗ gò cao thì không thể sanh hoa sen, mà nơi bùn lầy ẩm thấp hoa sen mới sanh được. Cũng thế, kẻ thấy pháp vô vi vào chánh vị thì cũng không còn có thể sanh khởi Phật pháp, trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh sanh khởi Phật pháp thôi. Nên biết tất cả phiền não là hạt giống Như Lai, ví như không xa biển cả thì chẳng được bữu châu vô giá.

Chính vì vậy, không vào biển phiền não thì chẳng thể nào có ngọc báu Nhất Thiết Trí vậy.

Chủ điểm nền tảng của kinh Duy Mã Cật là triển khai nhận thức về thực tại trên căn bản của nguyên lý bất nhị, tức hệ tư tưởng tánh Không của Bát Nhã. Nguyên lý bất nhị hướng dẫn nhận thức khởi đi từ những thực tại sai biệt và từ đó khám phá ra thực tại tối hậu là nhận thấy bản thể chân thật (tuyệt đối) ngay trong các thực tại sai biệt ấy. Để nhận thức được thực tại chân thật này, Bồ tát cần đi qua cánh cửa bất nhị, tức là cánh cửa giáo thông cho Bồ tát quay lại gần Niết bàn và sinh tử.

Bây giờ, Duy Mã Cật bảo các Bồ tát rằng: “Này nhơn tâm Bồ tát! Làm sao nhập pháp môn bất nhị? Hãy tùy sở ngộ của mình mà nói ra”.

Tất cả 32 vị Bồ tát lần lượt trả lời về câu hỏi này, nhưng cư sĩ Duy Mã Cật đều không hài lòng về những câu trả lời đó. Cuối cùng, tới Văn Thù Sư Lợi đáp:

  • Theo ý tôi, nơi tất cả vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, là nơi vấn đáp. Đó là nhập pháp môn vô nhị.

Bất nhị là cảnh giới của “đại trí tuệ bình đẳng”, tức là hai cũng không và ba cũng không. Nếu nói về pháp môn bất nhị này thì phải liên xã hẳn ngôn thuyết ở cảnh giới vô ngôn, tuyệt tự. Không thể đem hết thảy ngôn thuyết của tất cả các pháp mà hiểu rõ được, cũng không thể chỉ bảo được và cũng không thể biết được. Không thể hỏi và trả lời được, thì đó mới là “pháp môn bất nhị”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đồng thời còn quan hệ mật thiết với ngọn núi Ghandhamana, “ngọn núi thơm mùi hương báu”. Trong bộ kinh “Văn Thù Sư Lợi Nhập Diệt”, Ngài được mô tả là đã đến viếng dãy Hy Mã Lạp Sơn để chuyển hóa 500 vị đại tiên cư trú tại đây trở về với Phật giáo. Và sau đó, kinh này cũng mô tả cảnh Ngài nhập diệt, khi dùng lửa tâm muội tự thiêu đốt xác thân của mình. Xá lợi của Ngài được đưa về đỉnh núi Hương Sơn, nơi mà vô số loài thiên, Long, quỷ, thần sẽ tu tập đến để làm lễ tôn kính Ngài. Núi Hương Sơn này đã được nhà học giả Pháp Lamotte xác định là Ghandhamana.

Chúng ta thờ phượng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát để hướng về trí tuệ sẵn có của chúng ta. Vô minh, ái dục đã đưa chúng ta lặn chìm trong vòng sinh tử luân hồi, chịu chấp chứng muôn nỗi khổ đau. Chúng ta hãy thức tỉnh để quay về với trí tuệ sẵn có của chúng ta và dùng thanh gươm trí tuệ này để đứt đoạn lưới thâm ái và vượt rà khỏi bể khổ thâm sâu. Vàng, chỉ có trí tuệ mới có đủ công năng để cứu chúng ta khỏi vòng luân hồi nghiệp báo. Hơn nữa, Bồ tát là tấm gương sáng cho lợi ích thảo sanh, chúng ta phải dùng lưỡi kiếm trí tuệ này để cứu thoát mọi người khỏi kẻ thù phiền não, của con rắn độc thâm sân si. Chúng ta chỉ có thực hành được như vậy, mới xứng đáng đánh lễ đức Văn Thù Sư Lợi tay cầm kiếm, mình mặc giáp, ngồi trên lưng sư tử.

Công đức trong tự tánh chẳng phải bố thí, cũng không cần bày thí. Chỉ khi thực hành đúng công đức, chúng ta mới cảm nhận được vẻ đẹp và giá trị của nó.

Dưới đây là những hình ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đẹp nhất mà chúng tôi sưu tầm được. Kính gửi đến quý Phật tử:

Hình ảnh 1

Hình ảnh 2

Hình ảnh 3

Hình ảnh 4

Hình ảnh 5

Hình ảnh 6

Hình ảnh 7

Hình ảnh 8

Hình ảnh 9

Hình ảnh 10

Kính mời quý Phật tử xem thêm nhiều hình Phật khác tại đây.