Trở lại với “nét ngài nở nang” của Thúy Vân và tiếng nghệ Tĩnh trong “Truyện Kiều”

Trở lại “nét ngài nở nang” của Thúy Vân và tiếng nghệ Tĩnh trong “Truyện Kiều”

Hãy cùng nhau khám phá cái nét đặc biệt của nhân vật Thúy Vân trong “Truyện Kiều”, một trong những tác phẩm văn học điển hình của dân tộc. Dù chúng ta đã quen với việc gọi các loài côn trùng dân dã như cào cào, châu chấu, tép hay tôm theo từng địa phương khác nhau, nhưng việc phân biệt chính xác chúng dựa trên nét ngạy của Thúy Vân từ thời “Gia Tĩnh triều Minh” ở Trung Quốc cách đây hàng trăm năm vẫn là một điều khá khó khăn. Hãy cùng nhìn lại hai câu thơ 19 – 20 để cảm nhận nét ngài Thúy Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét NGÀI nở nang”

Những người coi đây là nét lông mày cho rằng, việc này dựa trên các bản Kiều Nôm xuất bản trong cuối thế kỷ XIX như Liễu Văn Đường, Thịnh Mỹ Đường, Duy Minh Thị… Tất cả đều viết từ “ngài” có “bộ trùng”, do đó chắc chắn đó phải là con tằm ngài, không chấp nhận ý kiến khác. Nhưng những người hiểu đây là tiếng Nghệ Tĩnh lập luận rằng, với tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du, ông không bao giờ dùng cụm từ “nở nang” để miêu tả lông mày, vì ông có thể chọn một từ khác phù hợp hơn.

Hơn nữa, khi miêu tả Từ Hải, Nguyễn Du đã viết: “Râu hùm, hàm én, mày ngài”. Liệu lông mày của Thúy Vân có giống như lông mày hình lưỡi búa của tướng võ? Vì vậy, “nét ngài” ở đây có nghĩa là tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, chỉ đặc điểm của người, điều này phù hợp với việc miêu tả tổng thể của một con người, với khuôn mặt đầy đặn, người nở nang… Những người thuộc “phe kia” có thắc mắc: “Vậy làm thế nào để giải thích việc từ ‘ngài’ được viết có ‘bộ trùng’ để chỉ con tằm của ngài?”

Thực tế là trong nhiều bản Kiều Nôm mà chúng ta có được, đều không phải là bản gốc do Nguyễn Du viết, mà là nhờ những người quảng bá “Truyện Kiều” chép lại và in, họ viết dựa trên cách hiểu của riêng mình, nên có thể sai âm. Đối với người miền Bắc, chữ “ngài” chỉ có hai nghĩa là con tằm và một người được tôn trọng. Họ thấy chữ “ngài” ở đây phù hợp, do đó chọn sử dụng (có bộ trùng). Điều này không phải là trường hợp đặc biệt, nó xuất hiện khá nhiều trong các bản Nôm cổ như bản Liễu Văn Đường… Cùng lấy ví dụ về hai câu 1565 – 1566 nói về Hoạn Thư:

“Buồng ĐÀO khuya sớm thảnh thơi
Ra vào một mực nói cười như không”

Ở đây, chữ “đào” trong câu đầu tiên có nghĩa là màu đỏ nhạt để miêu tả căn phòng phụ nữ, nhưng lại viết có bộ mộc, chỉ cây đào! Hoặc như hai câu 3017 – 3010:

“Huyên già dưới GỐI gieo mình
Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi”

Ở đây, Nguyễn Du sử dụng phép đảo ngữ khiến nhiều người hiểu nhầm, đúng ra phải là “gieo mình dưới gối huyên già”, chủ ngữ ẩn chỉ là Thúy Kiều, và gối ở đây là gối đầu. Trong bản Liễu Văn Đường, chữ gối được viết có bộ mộc, chỉ gối đầu, nhưng đúng ra phải viết có bộ túc, chỉ đầu gối. Những ví dụ như trên cho thấy không phải chữ Nôm nào cũng đáng tin cậy, chẳng hạn như chữ “ngài” viết có bộ trùng đang được chúng ta khảo sát.

Những nhà hiệu đính đã hiểu đúng, các phiên bản cổ đã chính xác khắc chữ “ngài” để chỉ người, như trong “Kim Vân Kiều tân truyện” dịch bởi Abel des Michels vào năm 1884, hay bản “Kim Vân Kiều tân truyện” của Phúc Văn Đường (1916) và bản Kiều do cụ Chu Phi Bảng chép tay ở Diễn Châu, Nghệ An…

Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du sử dụng một số từ tiếng Nghệ Tĩnh khác như “nghỉ”, đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít. Với chữ Nôm, “nghỉ” và “nghĩ” viết giống nhau, để phiên âm đúng, ta cần hiểu ý nghĩa của từ “nghỉ” trong ngôn ngữ của người Nghệ Tĩnh, thường được sử dụng với nghĩa “hắn ta”, biểu hiện sự coi thường hoặc suồng sã. Một cụ ông ở Hà Tĩnh đã nói với tôi rằng khi anh ta mua cam, anh ta đã chọn được mười quả, đang đắn đo xem có nên đổi quả nào không, thì bà bán cam nói: “Mười quả này to nhất rồi, còn ngắm với nghĩ chi nữa”! Với ý nghĩa đó, Kim Trọng không cần suy nghĩ, cân nhắc (chẳng nhe) cũng có thể nhận ra rằng Thúy Kiều là người hôm nọ.

Vào câu thứ 320, tôi từng hỏi nhiều bạn từ miền Bắc về ý nghĩa của cụm từ “chẳng nhe”. Không ai trả lời được, điều này dễ hiểu, vì họ là người Bắc và ở đây Nguyễn Du sử dụng từ Nghệ. Để bắn súng hoặc cung hiệu quả, người bắn phải ngắm. Tiếng phổ thông nói “ngắm”, tiếng Nghệ gọi là “nhe”. Chữ “nhe” còn có nghĩa rộng hơn là ngắm nghía, cân nhắc, suy xét một cách cẩn thận. Một bác sĩ ở Hà Tĩnh kể rằng khi anh ta mua cam, anh ta đã chọn được mười quả, đang đắn đo xem có nên đổi quả nào không, thì bà bán cam nói: “Mười quả này to nhất rồi, còn ngắm với nhe chi nữa”! Với ý nghĩa đó, Kim Trọng không cần suy nghĩ, cân nhắc (chẳng nhe) cũng có thể nhận ra rằng Thúy Kiều là người hôm nọ.

Và đến hai câu thứ 1133 – 1134:

“Tú Bà tốc thẳng tới nơi
Hằm hằm áp ĐIÊåU một hơi lại nhà”

Hai chữ đầu tiên của câu bát, trong nhiều phiên âm, được hiểu là “Hăm hăm”, nhưng thực tế là phải là “hằm hằm”, để miêu tả vẻ mặt tức giận nhưng không nói gì. Tôi muốn đề cập đến cụm từ “điệu một hơi” ở đây, một thành ngữ quen thuộc với người Nghệ Tĩnh cho đến ngày nay vẫn được sử dụng. Tôi đã hỏi một nhà nghiên cứu Kiều ở Bắc Ninh về ý nghĩa của chữ “điệu” ở đây, và anh ta trả lời rằng chỉ những ai học chữ Hán mới hiểu, còn mọi người khác thì không. Chữ “điệu” ban đầu là một động từ Hán Việt, có nghĩa là kéo, lôi… và người Nghệ từ lâu đã sử dụng trong ngôn ngữ hàng ngày, với ý nghĩa kéo một người hoặc một động vật theo ý mình, trong khi đối tượng bị kéo luôn chống lại. “Điệu một hơi” là cách kéo một người trong khi nín thở. Vì đã nín thở nên Tú Bà không nói gì, nhưng vẻ mặt của cô ấy vẫn tỏ ra tức giận, giận dữ.

Còn hai câu thứ 585 – 586:

“Điều đâu bay buộc ai làm
Vì ai đan RẬP giật giàm bỗng dưng”

Trong bản Liễu Văn Đường năm 1971 do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm, từ đầu tiên trong câu bát được phiên âm là “Hăm hăm”, nhưng in nghiêng như những chữ đáng nghi ngờ khác, vì ông Tuân không hiểu ý nghĩa của chữ RẬP là gì. Đây cũng là từ tiếng Nghệ Tĩnh quen thuộc, chỉ dụng cụ để bắt con giơi, hoặc chim, gồm hai sào nứa và lưới căng giữa, thường được căng trên đường giơi bay đi ăn quả hoặc khi chim bay bị người đánh động bằng cách giật sào vào những bụi cây rậm rạp chúng ngủ ban đêm. Khi giơi hoặc chim bị vướng vào lưới, hai sào nứa được người ta rập lại sát nhau để chúng không thể bay ngược trở lại. Vì hành động “rập” đó, dụng cụ này có tên gọi là rập. Kiều Oánh Mậu cũng không hiểu được ý nghĩa của từ này, nên ông đổi thành chữ “giậm”, chỉ dụng cụ bắt cá!…

Nguyễn Du quê Hà Tĩnh, sinh ra và lớn lên ở Thăng Long, sống ở nhiều vùng quê từ Phú Xuân đến Bắc Hà. Ông cũng đã sống ở quê Hà Tĩnh một số lần và kéo dài đến sáu năm… vì vậy ông hiểu tiếng Nghệ và trong việc sáng tác văn chương, ông đã sử dụng một số từ tiếng Nghệ được chọn lọc, không sử dụng một cách tự nhiên như những người chỉ sống trên đất này. Khi đọc “Truyện Kiều”, chúng ta cần nhớ điều này, và may mắn là số từ tiếng Nghệ trong tác phẩm này khá ít, chắc chắn không đến mười ngón tay để đếm hết!